Trong quaù khöù quan ñieåm
giaù trò laø hieáu, ñeã, trung,
tín, leã, nghóa, lieâm, sæ.
Hieän thôøi chaúng coøn nöõa.

tonsutrongdao.edu.vn

AN SĨ TOÀN THƯ * KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT CẦU SINH TỊNH ĐỘ - CHƯƠNG MỘT - CƯƠNG YẾU CỦA PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ NHẠC TRỜI, MƯA HOA

AN SĨ TOÀN THƯ

NIỆM PHẬT CẦU SINH TỊNH ĐỘ

Tác giả: Chu An Sĩ
 

CHƯƠNG MỘT

CƯƠNG YẾU CỦA

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ
 

NHẠC TRỜI, MƯA HOA
 

Kinh A Di Đà chép rằng: Ở Cõi Phật ấy thường có nhạc Trời, mặt đất toàn bằng vàng ròng. Suốt ngày đêm đều có mưa hoa Mạn đà la từ Trời rơi xuống.

chúng sinh ở cõi ấy thường vào mỗi buổi sáng sớm dùng vạt áo trước nâng lên hứng lấy hoa Trời xinh đẹp, rồi mang đi cúng dường mười vạn Đức Phật ở các phương khác. Khi đến giờ ăn thì quay về dùng cơm rồi đi kinh hành.
 

CÂY BÁU VEN HỒ
 

Kinh Đại A Di Đà chép rằng: Ven bờ các ao hồ báu đều có vô số cây thơm chiên đàn, hoa quả tốt lành, hương thơm lan tỏa. Lại có hoa sen đủ các màu che kín mặt nước.

Lại có cây bằng bảy món báu mọc thành hàng lối. Những cây thuần một món báu thì từ thân cây cho đến cành lá hoa quả đều thuần một món báu. Những cây bằng hai món báu thì tất cả đều bằng hai món báu. Cứ như vậy mọc thành hàng lối ngay ngắn, cành nhánh chuẩn mực, trổ hoa hài hòa, kết quả đều đặn, cho đến bao bọc khắp cả Thế giới ấy, không thể dùng mắt nhìn thấu hết.
 

CÂY BÁU, LƯỚI BÁU

PHÁT ÂM VI DIỆU
 

Kinh A Di Đà chép rằng: Ở Thế Giới Cực Lạc, khi gió lay động các hàng cây báu cùng những tấm lưới báu, liền phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm ngàn tiếng nhạc đồng thời vang lên. Bất kỳ ai được nghe âm thanh hòa hợp ấy đều tự nhiên sinh tâm nhớ nghĩ đến Phật, đến pháp và Tăng già.
 

NƯỚC TẮM, HƯƠNG HOA

ĐỀU MÀU NHIỆM
 

Kinh Đại A Di Đà chép rằng: Người được sinh về Thế Giới Cực Lạc, mỗi khi bước xuống ao hồ để tắm rửa, nếu muốn nước ngập chân thì được vừa ngập chân, nếu muốn nước lên đến đầu gối, đến lưng hoặc đến cổ, đều lập tức được như ý muốn. Nếu muốn nước ấm hơn hoặc lạnh hơn cũng đều được như ý.

Sau khi tắm xong, mỗi người đều lên ngồi giữa Tòa Hoa Sen, tự nhiên có gió lành vi diệu nhẹ thổi qua, lay động các hàng cây báu, vang lên tiếng âm nhạc. Gió lay các đóa hoa sen báu tỏa lên hương thơm khác lạ vây quanh các vị Bồ tát, Thanh văn đang ngồi bên trên.

Nhìn ngút tầm mắt, mọi thứ đều sáng đẹp lộng lẫy. Hương hoa thơm lan tỏa không gì sánh bằng. Đến lúc hoa nào chớm tàn thì lập tức có gió xoáy cuốn đi ngay.

Trong đại chúng có người muốn nghe thuyết pháp, có người muốn nghe âm nhạc, có người muốn ngửi hương hoa, cho đến có người không muốn nghe gì cả, tất cả đều được như ý muốn không hề gây trở ngại cho nhau.
 

CHIM HÓT PHÁP ÂM
 

Kinh A Di Đà chép rằng: Ở Thế Giới Cực Lạc có đủ các loài chim kỳ diệu đủ màu sắc như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Vũ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cộng Mạng... các loài chim này, suốt ngày thường xuyên phát ra âm thanh hòa nhã.

Những âm thanh ấy diễn đạt đầy đủ các pháp như năm căn lành năm sức, bảy phần bồ đề, tám Thánh đạo. Những chúng sinh ở cõi ấy được nghe âm thanh như vậy rồi đều tự mình nhớ nghĩ đến Phật, nhớ nghĩ đến Pháp, nhớ nghĩ đến Tăng già.

Kinh lại chép rằng: Các loài chim ấy đều do Đức Phật A Di Đà vì muốn cho tiếng thuyết pháp được truyền ra khắp nơi nên mới biến hóa tạo thành.
 

CẢNH TƯỢNG THÙ THẮNG
 

Kinh Đại A Di Đà chép rằng: Các vị thượng thiện nhân ở Thế Giới Cực Lạc đều có tuổi thọ vô lượng vô số kiếp, có khả năng nhìn xa nghe khắp, quan sát từ xa, nghe tiếng nói từ xa.

Tướng mạo các Ngài đều đoan nghiêm tốt đẹp, không ai có các tướng xấu. Thể tánh các Ngài đều trí tuệ dũng kiện, không có ai tầm thường, ngu si.

Hết thảy những niệm của các Ngài không bao giờ trái với đạo đức, nên biểu lộ ra những lời bàn luận đều là chính trực, tốt đẹp, người người đều thương yêu kính trọng nhau, không hề sự ganh tỵ ghen ghét. Các vị đều rõ biết những việc đời trước, dù trải qua đã hàng vạn kiếp cũng đều nhớ biết ràng.

Các vị cũng biết cả những chuyện quá khứ, hiện tại và vị lai trong khắp các Thế giới mười phương, lại cũng biết cả tâm ý của hết thảy chúng sinh trong khắp thiên hạ, cũng biết cả việc mỗi chúng sinh ấy đến kiếp nào, năm nào sẽ được độ thoát thành người, được sinh về Thế Giới Cực Lạc.
 

THỨC ĂN UỐNG TỰ NHIÊN HOÁ HIỆN
 

Kinh Đại A Di Đà chép rằng: Những người được vãng sinh về Thế giới của Đức Phật A Di Đà, khi đến giờ ăn nếu muốn dùng chén bát bằng bạc liền có chén bát bằng bạc, hoặc có người muốn dùng chén bát bằng vàng, hoặc bằng lưu ly, cho đến được làm bằng hạt châu minh nguyệt hay hạt châu ma ni, đều lập tức được hóa hiện theo ý muốn.

Trong bát ấy lại hiện ra đầy đủ thức ăn có trăm mùi vị, dù nhiều cũng không thừa, dù ít cũng không thiếu. Sau khi ăn xong thì tất cả đều tự nhiên tiêu tán hết, không hề còn lại những thức ăn thừa. Hoặc cũng có trường hợp chỉ cần nhìn thấy màu sắc, ngửi thấy mùi hương thì tự nhiên no đủ.

Mỗi khi ăn xong thì chén bát tự nhiên mất đi, đến lúc muốn ăn lại tự nhiên hiện ra như trước. Sự khoái lạc mầu nhiệm ở Thế giới ấy chỉ kém hơn cảnh giới Niết Bàn mà thôi.
 

SỰ TU TẬP THÍCH HỢP
 

Kinh Đại A Di Đà chép rằng: Ở Thế Giới Cực Lạc, nhân dân có những người ở trên mặt đất giảng Kinh, tụng Kinh, nghe Kinh, hoặc suy ngẫm đạo lý hay ngồi Thiền. Lại có những người ở trên hư không giảng Kinh, tụng Kinh, nghe Kinh, hoặc suy ngẫm đạo lý hay ngồi Thiền.

Những người chưa chứng đắc quả Tu đà hoàn sẽ nhân đó được chứng đắc quả Tu đà hoàn, những người chưa chứng đắc quả Tư đà hàm sẽ nhân đó được chứng đắc quả Tư đà hàm, cho đến những người chưa chứng đắc quả A la hán hoặc Bồ tát bất thối chuyển. Đều sẽ nhân đó được chứng đắc quả A la hán hoặc Bồ tát bất thối chuyển. Mỗi vị như thế đều tùy theo tư chất riêng của mình mà đạt được sự vui vẻ thích ý.
 

SO SÁNH DUNG MẠO
 

Đức Phật hỏi Ngài A Nan: Ví như có người ăn mày đứng cạnh một vị Đế vương thì hình tướng, dung mạo có thể sánh cùng nhau chăng?

Ngài A Nan thưa rằng: Bạch Thế Tôn, người ăn mày dung mạo xấu xí, làm sao có thể sánh được với vị Đế vương?

Đức Phật dạy: Vị Đế vương kia tuy cao quý, nhưng nếu lại so sánh với vị Chuyển luân thánh vương thì cũng chẳng khác một kẻ ăn mày.

Chuyển luân thánh vương tuy cai trị bốn cõi Thiên hạ, nhưng nếu so với Đao Lợi thiên vương thì kém hơn đến trăm ngàn vạn lần, thật không thể sánh kịp. Đao Lợi thiên vương nếu đem so với vị Thiên Vương của cõi Trời Tha hóa tự tại thì lại kém xa đến trăm ngàn vạn lần, thật không thể sánh kịp.

Thế nhưng vị Thiên Vương cõi Trời Tha hóa tự tại nếu đem so với các bậc Thượng Thiện Nhân cùng Chư Bồ tát Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà thì lại kém xa đến trăm ngàn vạn lần, thật không thể nào sánh kịp.
 

TU TẬP PHÁP QUÁN ĐƯỢC

THẤY PHẬT
 

Kinh Thập Lục Quán có chép việc bà Vi Đề Hy là hoàng hậu của vua Tần Bà Sa La, nhân khi con trai bà là A Xà Thế làm việc trái nghịch, giết cha để cướp ngôi, nên sinh lòng chán ngán không muốn ở cõi Ta Bà đầy uế trược này nữa, phát tâm cầu sinh về cõi Tây Phương Tịnh Độ.

Đức Phật dạy bà Vi Đề Hy tu tập mười sáu pháp quán tưởng. Khi bà thực hành tu tập đến pháp quán thứ bảy thì đã thấy được hồ báu bằng lưu ly ở cõi Cực Lạc, từ xa được trông thấy Đức Phật A Di Đà, tướng hảo quang minh, ngự giữa hư không. Bên trái có Bồ Tát Quán Thế Âm. Bên phải có Bồ Tát Đại Thế Chí.

Khi ấy Đức Phật Thích Ca liền thọ ký cho bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ đều sẽ được vãng sinh về Tây Phương Tịnh Độ. Đây chính là nhờ tu tập, áp dụng các pháp quán tưởng Phật dạy mà được vãng sinh.

Tuy nhiên, Đức Phật Thích Ca cũng có nói với bà Vi Đề Hy rằng: Bà vốn còn là người phàm, tâm tánh yếu ớt kém cỏi, nay nhờ có Như Lai đem phương tiện dễ dàng chỉ dạy cho nên mới được vãng sinh.

thế, Đại Liên Trì nói rằng: Các pháp quán trong Quán Kinh hết sức sâu xa huyền diệu, người đời nay căn tánh kém cỏi chỉ nên giữ theo phần căn bản đại lược.

Giữ theo phần căn bản đại lược, đó chính là nói đến việc trì niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà.
 

NIỆM PHẬT ĐƯỢC THẤY PHẬT
 

Đức Thế Tôn khi thuyết giảng Kinh Đại A Di Đà đã nói đầy đủ về Thế Giới Cực Lạc có các sự trang nghiêm.

Phật dạy Ngài A Nan rằng: Ông hãy đứng dậy chỉnh trang y phục, chắp tay cung kính, quay mặt về phương Tây mà đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.

Ngài A Nan y theo lời dạy, cung kính lễ Phật rồi bạch rằng: Nay con nguyện được nhìn thấy Đức Phật A Di Đà cùng với Thế Giới Cực Lạc và tất cả đại chúng các vị Bồ tát, Thanh văn nơi cõi ấy.

Phát nguyện như thế vừa xong thì Đức Phật A Di Đà lập tức phóng hào quang chói sáng, soi chiếu khắp hết thảy các Thế giới.

Khi ấy Ngài A Nan liền nhìn thấy Đức Phật A Di Đà, dung mạo uy nghi sừng sững như tòa núi lớn bằng vàng ròng. Bốn chúng trong Pháp Hội khi ấy đều được nhìn thấy, lại cũng được nhìn thấy cả cõi Cực Lạc trang nghiêm thanh tịnh.

Ngay vào lúc ấy, những người mù đều tự nhiên sáng mắt, những người điếc tự nhiên được nghe, những người câm tự nhiên nói được, những người què tự nhiên thể đứng dậy đi, khắp các cõi địa ngục, ngạ quỷ cũng đều nhất thời được hưởng sự an ổn, mừng vui. Các nhạc khí của Chư Thiêncõi Trời không ai chạm đến cũng tự nhiên vang lên tiếng nhạc.
 

NIỆM PHẬT ĐƯỢC VÃNG SINH
 

Kinh A Di Đà chép rằng: Như những kẻ nam, người nữ có lòng lành, nghe giảng nói về Phật A Di Đà, bèn chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không tán loạn.

Người ấy khi lâm chung liền thấy Đức Phật A Di Đà cùng các vị Thánh Chúng hiện ra trước mắt. Khi mạng chung tâm không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Lại cũng chép rằng: Nếu ai có lòng tin, nên phát nguyện sanh về cõi ấy.

Lời bàn: Đoạn Kinh này chính là yếu chỉ của trọn Bộ Kinh, nhấn mạnh ở sự chuyên tâm niệm danh hiệu Phật, đạt đến mức nhất tâm không tán loạn.
 

VÃNG SINH KHÔNG PHẢI

VIỆC DỄ DÀNG
 

Kinh A Di Đà chép rằng:

Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Không thể chỉ có chút ít căn lành, phước đức, nhân duyên mà được sinh về cõi Cực Lạc.

Lời bàn:

Phần trước có nói: Nếu ai có lòng tin, nên phát nguyện sinh về cõi ấy. Cho nên, lòng tin là điều thiết yếu để bước vào pháp môn này. Nếu người không có niềm tin thì không thể Niệm Phật. Không thể Niệm Phật thì đó chính là không có căn lành, không có phước đức, không có nhân duyên.

Pháp Môn này như nước cam lồ, nếu như rốt cuộc ta lại không có phần, lẽ nào không phải là đau đớn đáng tiếc lắm sao. Mỗi khi tôi Tụng Kinh vừa đến câu này thì tự nhiên cảm thấy toàn thân rúng động, có khi khởi lòng thương cảm rơi lệ như mưa.

Đến lúc bình tâm mới tự an ủi mình rằng: Chỉ sợ không khởi tâm cầu vãng sinh mà thôi. Nếu như đã có thể tin nhận Đức Phật A Di Đà là có thật, thì đó chính là căn lành của ta.

Nếu như đã có thể phát tâm bồ đề tha thiết, thì đó chính là phước đức của ta. Nếu như đã có thể trì niệm được Thánh hiệu của Đức Như Lai, thì đó chính là nhân duyên của ta.

Đầy đủ căn lành, phước đức, nhân duyên, thì có lý nào lại không được vãng sinh?

Kinh Pháp Hoa nói rằng: Trong tâm khởi sinh niềm vui mừng lớn, tự biết ngày sau sẽ được thành Phật.
 

LỜI DẶN SAU CÙNG
 

Kinh A Di Đà chép rằng:

Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: Như có người nào trước đã phát nguyện, hoặc nay vừa phát nguyện, hoặc sau này sẽ phát nguyện sinh về Cõi Phật A Di Đà, thì những người ấy đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị vô thượng, chánh đẳng, chánh giác. Những người ấy hoặc đã được sanh, hoặc nay được sanh, hoặc sau này sẽ được sanh về cõi ấy.

Kinh lại cũng chép rằng: vậy, Xá Lợi Phất, các ông nên tin theo lời ta và Chư Phật đã nói.

Lời bàn:

Chúng sinh trong ba cõi cũng giống như người bị vây hãm trong thành, gấp rút tìm đường, mong ra khỏi nhưng không có cách nào.

Đến khi may mắn mở ra được một cửa thành, có thể theo đó thoát ra mà nhanh chóng quay về quê cũ, lẽ nào lại bỏ qua mất cơ hội hay sao?

Pháp môn Tịnh Độ chính là con đường giúp người thoát ra khỏi thành bị vây hãm, có thể nhanh chóng quay về quê cũ. Đức Thích Ca Như Lai đại từ đại bi, thương xót những người bị vây hãm trong thành ắt phải chịu luân hồi, nên mới khai mở con đường thẳng tắt này, giúp người nhanh chóng thoát ra.

Đoạn Kinh Văn này chính lời dặn đinh ninh sau chót, không chỉ dạy người tin sâu những lời do chính Đức Như Lai nói ra,còntin nhận lời của Chư Phật mười phương, quả thậttâm bi mẫn hết sức thâm thiết.

Chúng ta thọ nhận ân đức lớn lao của Phật chỉ bày pháp môn này, không biết làm sao báo đáp, chỉ có thể tự mình cố gắng y theo lời dạy tu hành, lập nguyện sâu rộng, cầu sinh Tịnh Độ mà thôi.

Nay kính cẩn mang pháp môn này truyền lại, chỉ bày cho người đời sau.
 

PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRÌ
 

Mỗi buổi sáng sớm, súc miệng rửa mặt sạch sẽ rồi đốt hương trầm, cung kính chắp tay hướng về Phương Tây, nếu như trong nhà có thờ Tượng Phật thì hướng về Tượng Phật.

Đem hết tâm thành nghĩ tưởng đến việc vì báo đền bốn ơn nặng, cùng vì tất cả chúng sinh trong ba cõi pháp giới, cung kính đảnh lễ:

Nam Mô Ta Bà Thế Giới Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Ba lạy hoặc một lạy.

Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Chư Phật. Một lạy.

Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Tôn Pháp. Một lạy.

Nam Mô Thập Phương Tận Hư Không Giới Nhất Thiết Hiền Thánh Tăng. Một lạy.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Bảy lạy hoặc mười lạy.

Nam Quán Thế Âm Bồ Tát. Một lạy hoặc ba lạy.

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Một lạy hoặc ba lạy.

Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Một lạy hoặc ba lạy.

Bốn lời nguyện lớn của Bồ tát:

Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ khắp. Một lạy.

Phiền não vô tận, thệ nguyện dứt trừ. Một lạy.

Pháp môn vô lượng, thệ nguyện tu học. Một lạy.

Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành tựu. Một lạy.

Lễ bái như trên xong thì tụng Kinh A Di Đà, hoặc tụng Kinh, Trì Chú theo thông lệ bình thường mỗi ngày. Việc t tụng không chú trọng nhiều hay ít, chỉ cần hết lòng chú tâm khi trì tụng. Trì tụng xong hồi hướng về việc vãng sinh Tịnh Độ.

Nếu trong nghi thức trên có lược bớt đi phần nào thì ngay sau đó có thể chuyển sang một lòng Niệm Phật.
 

NGHI THỨC NIỆM PHẬT TỪ

KHỞI ĐẦU ĐẾN KẾT THÚC
 

Mở đầu tụng bài Tán Phật:

A Di Đà Phật thân kim sắc

Tướng hảo quang minh vô đẳng luân

Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di

Cám mục trừng thanh tứ đại hải

Quang trung hóa Phật vô số ức

Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên

Tứ thập bát nguyện độ chúng sinh

Cửu Phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.

Tạm dịch:

Phật A Di Đà thân vàng chói sáng

Tướng quang minh tốt đẹp chẳng ai bằng

Mày trắng ẩn hiện Tu Di năm núi

Mắt xanh trong lặng bốn biển mênh mông

Giữa hào quang hóa hiện vô số Phật

Cùng vô biên chúng Bồ tát vây quanh

Bốn mươi tám nguyện độ khắp chúng sinh

Chín phẩm vãng sinh, cùng lên bờ giác.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.

Sau đó tùy ý trì niệm hoặc hồng danh sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật hoặc hồng danh bốn chữ A Di Đà Phật, hoặc mấy trăm biến, hoặc mấy ngàn biến, đều tùy sức mỗi người.

Niệm Phật xong thì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí.

Tiếp theo tụng qua một lần bài hồi hướng, hồi hướng về việc vãng sinh Tây Phương Cực Lạc.

Nếu thời khóa Niệm Phật mỗi ngày lên đến nhiều ngàn biến, nhiều vạn biến, thì nên phân chia thành nhiều lần, mỗi lần trì niệm xong đều tụng bài hồi hướng.

Bài hồi hướng, có bài đầy đủ tường tận, có bài giản lược ngắn gọn. Tường tận đầy đủ thì theo bài văn do Đại Sư Vân Thê soạn, giản lược ngắn gọn thì theo bài văn do Sám chủ Từ Vân soạn. Hoặc giản lược hơn nữa thì dùng bài kệ mười sáu câu trong Kinh có ghi ở phần sau, mỗi người có thể tùy sức mà chọn lựa.
 

PHÁP MÔN TRÌ TỤNG MƯỜI NIỆM
 

Mỗi buổi sáng sớm, súc miệng rửa mặt sạch sẽ rồi đốt hương trầm. Nếu trong điều kiện không có hương hoa thì nên hướng tâm quán tưởng vô số hương hoa, đều dâng lên cúng dường Tam Bảo.

Sau đó chắp tay cung kính hướng về phương Tây, chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Một lạy.

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Ba lạy.

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Một lạy.

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát. Một lạy.

Nam Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. Một lạy.

Vẫn chắp tay quay mặt về Phương Tây, chí tâm niệm Thánh Hiệu sáu chữ: Nam Mô A Di Đà Phật. Thong thả niệm liên tục cho đến lúc phải dừng lại lấy hơi thì tính là một niệm. Cứ như thế, niệm được mười hơi là mười niệm, mỗi người tùy theo hơi thở dài ngắn mà niệm, không hạn định số Phật hiệu trong mỗi hơi.

Khi niệm phải lưu ý âm thanh không quá cao, không quá thấp, không quá nhanh, không quá chậm, luôn giữ ở mức vừa phải, mười hơi liên tục như thế có thể khiến cho tâm không còn tán loạn.

Lấy sự tinh cần chuyên niệm như thế làm công phu, bởi phương pháp trì tụng mười niệm này chính là dựa vào hơi thở để kiểm soát tâm ý.

Sau khi hoàn tất một thời khóa mười niệm thì tụng đọc bài kệ hồi hướng gồm bốn đoạn, mười sáu câu như sau đây:

Ngã kim xưng niệm A Di Đà

Chân thật công đức Phật

Danh hiệu duy nguyện từ bi ai nhiếp thụ

Chứng tri sám hối cập sở nguyện.

Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp

Giai do vô thủy tham sân si

Tùng thân ngữ ý chi sở sinh

Nhất thiết ngã kim giai sám hối.

Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời

Tận trừ nhất thiết chư chướng ngại

Diện kiến ngã Phật A Di Đà

Tức đắc vãng sinh An Lạc sát.

Ngã kí vãng sinh bỉ quốc dĩ

Hiện tiền thành tựu thử đại nguyện

Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh

Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.

Tạm dịch:

Nay con niệm Phật A Di Đà

Là Thánh hiệu công đức chân thật

Nguyện Phật từ bi thương tiếp nhận

Chứng minh con sám hối, phát nguyện.

Xưa nay con từng tạo nghiệp ác

Đều do muôn kiếp tham, sân, si

Phát sinh ra thân, miệng và ý

Hết thảy nay con xin sám hối.

Nguyện cho khi con sắp qua đời

Bao nhiêu chướng ngại đều dứt hết

Mắt nhìn thấy Phật A Di Đà

Liền được vãng sinh về Cực Lạc.

Khi vãng sinh về Cõi Phật rồi

Liền được thành tựu nguyện lớn này

Hết thảy chúng sinh đang khổ não

Nguyện sớm được về nơi Cực Lạc.
 

PHÁP MÔN BÁO ƠN
 

Người Tu Tịnh Độ, tĩnh tâm quán xét trong suốt một đời mình thì người mình chịu ơn sâu nặng nhất không ai hơn cha mẹ.

Từ lúc mang thai ta suốt mười tháng ròng, cho đến ba năm chăm sóc bú mớm, rồi nuôi nấng dạy dỗ cho đến lớn khôn... ân đức lớn lao ấy, làm sao có thể báo đáp cho hết được?

Lại suy xét rằng, ta từ vô số kiếp đến nay, đã trải qua vô số lần sinh ra. Như vậy thì những ân đức của cha mẹ trong mỗi đời mà ta chưa báo đáp hết cũng là không thể kể hết.

Những bậc cha mẹ của ta trong vô số đời trước như thế, ngày nay ắt không khỏi có những người đang ở trong địa ngục, chịu hình phạt thiêu đốt, nung nấu, cắt xẻ thân thể. Lại cũng không khỏi có những người đang ở trong cảnh giới ngạ quỷ, chịu cảnh đói khát bị lửa thiêu thân.

Lại cũng không khỏi có những người đang ở trong cảnh giới súc sinh, chịu cảnh khổ phải chở nặng, kéo cày... nếu chúng ta không tin có những điều này, thì chẳng khác nào gà mẹ đã bị giết mà gà con vẫn không tin điều đó. Nếu chúng ta không nghĩ cách cứu độ cho cha mẹ đời trước như thế, thì chẳng khác nào gà con đứng nhìn mẹ bị giết mà không biết làm gì để cứu.

Nói đến đây ắt không khỏi phải rơi lệ bi thương, gieo mình xuống đất, xin phát tâm bồ đề thay cho cha mẹ đời này cũng như nhiều đời trước, cùng hết thảy các bậc Sư trưởng, quyến thuộc mà ta đã thọ ân, chí tâm xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà tùy duyên cảnh, không kể số lần nhiều ít.

Trong mỗi một niệm như thế, trước là nguyện giải trừ tám mươi ức kiếp tội nặng trong sinh tử cho những người mà ta hướng đến, sau là nguyện khi bản thân ta được vãng sinh Tịnh Độ rồi, sẽ quay trở lại cõi Ta Bà này mà nỗ lực hết sức độ thoát cho họ.

Nếu như có người ruột thịt chí thân vừa mới qua đời, cũng hướng tâm hồi hướng cho họ được vãng sinh Tịnh Độ.
 

PHÁP MÔN TRỢ DUYÊN
 

Người tu Tịnh Độ, mỗi buổi sáng sớm nên quán tưởng trong khắp cõi Diêm Phù Đề này, lại suy đến trong cả đại thiên Thế giới, số lượng trâu, dê, lợn, chó, cho đến các loài cầm thú, cá, rùa... bị mang ra giết hại thật không thể tính đếm nổi. Những con vật bị giết hại ấy, nếu gom thân xác lại ắt chất chồng hơn cả núi cao, máu huyết ắt nhuộm đỏ cả dòng sông đang chảy...

Hết thảy những loài vật ấy, chỉ do đời trước tạo nhiều nghiệp ác, không hề biết đến Tây Phương Cực Lạc, nên phải chịu nỗi khổ trong chốn luân hồi. Ta nên thay chúng phát tâm bồ đề, chí tâm xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà tùy duyên cảnh, không kể số lần nhiều ít.

Trong mỗi một niệm như thế, trước nguyện giải trừ tám mươi ức kiếp tội nặng trong sinh tử cho chúng, sau nguyện khi bản thân ta được vãng sinh Tịnh Độ rồi. Sẽ quay trở lại cõi Ta này mà nỗ lực hết sức độ thoát chúng.

Tiếp  theo quán tưởng trong khắp cõi Diêm Phù Đề này, lại suy đến trong cả đại thiên Thế giới, hết thảy loài ngạ quỷ đều đang chịu sự đói khát bức bách, cổ họng bốc lửa, xương cốt cử động khua vang thành tiếng, phải chịu đựng sự khổ não khôn lường.

Lại quán tưởng trong tất cả các địa ngục nóng, địa ngục lạnh, địa ngục lớn, địa ngục nhỏ, vô số chúng sinh đang chịu sự trừng phạt chặt, chém, thiêu đốt, xay giã... trong mỗi một ngày đêm phải chết đi sống lại đến hàng vạn lần, chịu đựng sự khổ não khôn lường.

Tất cả những chúng sinh ấy, chỉ vì đời trước rộng làm các nghiệp ác, không tin có Tây Phương Cực Lạc, nên phải chịu khổ não trong chốn luân hồi. Ta nên thay họ phát tâm bồ đề, chí tâm xưng niệm Thánh hiệu A Di Đà tùy duyên cảnh, không kể số lần nhiều ít.

Trong mỗi một niệm như thế, trước là nguyện giải trừ tám mươi ức kiếp tội nặng trong sinh tử cho họ, sau là nguyện khi bản thân ta đã được vãng sinh Tịnh Độ rồi, sẽ quay trở lại cõi Ta Bà này mà nỗ lực hết sức để độ thoát họ.

Lại nữa, người tu Tịnh Độ trong mỗi một ngày, tùy theo khả năng, hoàn cảnh, nếu có làm được bất kỳ việc thiện nào, chẳng hạn như bố thí cho người nghèo, cúng dường trai Tăng, tạo vẽ hình Tượng Phật.

Hay mua vật mạng phóng sinh... dù được đôi chút phước đức nhỏ nhoi cũng đều thay cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ não trong mười phương mà hồi hướng. Cầu cho tất cả đều được sinh về Thế Giới Cực Lạc.

***